Bánh dừa Giồng Luông
Loại bánh quê, mộc mạc đơn sơ đã cùng người dân xứ sở Bến Tre tồn tại, đó là “bánh dừa Giồng Luông”, món quà quê của những người mẹ đi chợ mua về, trong ký ức tuổi thơ của bao đứa trẻ nơi đây. Khi làm bánh, người dân chú trọng cả chất lượng cũng như hình thức của bánh, nên bánh không chỉ ngon, mà còn đẹp, bánh có thể để vài ba ngày, không bị ôi thiu, ăn vẫn ngon. Để có được một chiếc bánh dừa ngon thì quan trọng vẫn là khâu chọn các nguyên vật liệu. Nếp để làm bánh phải là nếp sáp, dẻo và thơm. Ngâm từ bốn đến năm tiếng, người thợ mới bắt đầu rút nếp, vo nhiều lần để loại bỏ các tạp chất, nếu không bánh sẽ mau thiu. Nếp ấy được cho vào thúng, đặt nơi thoáng gió cho để cho thật ráo. Tên gọi bánh dừa đã gắn với hình ảnh của cây dừa, nên làm bánh này thì không thể thiếu nước cốt dừa, mà dừa phải là dừa vừa tới, không quá khô và quá non. Nước cốt dừa vắt ra được trộn chung vào nếp, thêm ít muối, đường và phải trộn đều tay. Bánh dừa thì đa dạng với nhiều loại nhân khác nhau như: bánh dừa đậu xanh, bánh dừa chuối, bánh dừa nước tro, bánh dừa đậu đen,… Nếu bánh tét gói bằng lá chuối thì bánh dừa lại được gói bằng lá dừa, cái tên bánh dừa cũng từ đó mà ra. Lá dừa ở đây phải là dừa nước, đẫy đà nhưng còn non tơ và thơm mùi lá mới. Chính chiếc lá gói bánh dừa lại quyết định cả hương vị của chiếc bánh. Nếu gói bằng thứ lá khác thì chẳng bao giờ có được mùi hương thơm đặc trưng ấy. Người thợ phải quấn từng lá theo đường eclipse, tạo thành chiếc nồng gói bánh. Nghe thì dễ nhưng có mấy ai làm được nồng bởi chỉ người khéo tay và có thâm niên thì xoay nồng mới khéo, đều và đẹp. Kế đến là khâu gói bánh. Nếp được cho từ từ vào nồng, ép chặt, tùy loại nhân mà người ta thêm chuối, đậu xanh, đậu đen vào. Nếp được cho vào vừa đầy và buộc chặt bằng dây lạt hoặc gân lá. Nếu buộc bằng dây nhựa thì bánh sẽ mất ngon. Buộc bánh cũng phải quen tay không được quá chặt cũng không quá lỏng. Sau đó, bánh được cột thành chùm đem hấp, lửa hấp bánh phải đều không được quá lớn hoặc quá nhỏ, nước hấp bánh thường được bỏ vào một ít phèn chua để tạo cho bánh có màu tươi và đẹp. Bánh muốn ngon, phải ăn khi bánh vừa nguội, mới cảm nhận hết hương vị vốn có của nó. Khi ấy, nếp mới đủ chắc, dẻo quẹo, hạt đậu đủ bùi, chuối đủ chín, ăn vào có mùi nước cốt dừa thơm béo đến ngất ngây. Bánh được sản xuất thường nhật tại nhiều hộ ở Giồng Luông, khẳng định một sức sống mãnh liệt của người dân nơi đây với chiếc bánh mang đậm nghĩa tình quê hương xứ sở với cái tên gọi thân thương “bánh dừa Giồng Luông”.
Linh Trang (sưu tầm)

